Ung thư, bồi thẩm đoàn và cơ sở khoa học chắc chắn: Monsanto quyết định giải thích

Ngày 10 Tháng Tám 2018, một bồi thẩm đoàn được thành lập tại Tòa Thượng Thẩm California ở San Francisco xác định người khổng lồ kinh doanh nông nghiệp Monsanto (mà bây giờ là một phần của công ty dược phẩm Bayer) chịu trách nhiệm về sự phát triển bệnh ung thư hạch Non-Hodgkin của một người đàn ông chăm sóc bãi cỏ 46 tuổi. Người đàn ông bị bệnh nan y này là Dewayne Johnson đã cáo buộc rằng quá trình tiếp xúc lặp đi lặp lại của mình đối với sản phẩm trừ cỏ Roundup của Monsanto được bán trên thị trường (có thành phần hoạt chất là Glyphosate) đã gây ra bệnh ung thư cho mình. Monsanto đã được lệnh phải trả 289 triệu đô la thiệt hại.

Khả năng gây ung thư của Glyphosate (một sản phẩm chủ lực của nông nghiệp toàn cầu và đến nay là loại thuốc trừ cỏ sử dụng phổ biến nhất trên thế giới) đã trở thành một chủ đề nóng bỏng mà câu chuyện này thường được dàn xếp làm phương hại đến cảm xúc và được dựng bởi cuộc chiến của một số đông người. Bởi vì Monsanto tạo ra giống biến đổi gien có khả năng kháng thuốc trừ cỏ chứa Glyphosate (Roundup ready), chủ đề không kém phân cực của GMOs là một phần của cuộc tranh luận ồn ào này là như vậy.

Đối với nhiều người, những người đã chiến đấu cho sự công nhận của Glyphosate là gây ung thư, phán quyết đã được dẫn dắt như là bằng chứng thuyết phục và cuối cùng hóa chất gây ung thư. Chân lý khoa học, tuy nhiên, không được quyết định bởi ban bồi thẩm, nhưng thông qua một cách nghiêm ngặt thể hiện sự đồng thuận. Nhưng sự đồng thuận khoa học về Glyphosate còn xa mới là một vấn đề dừng lại và nhiều nhà khoa học đã đưa ra nhiều vấn đề quan trọng với phán quyết.

Ai quyết định nếu cái gì đó là nguyên nhân ung thư?

Không một cá nhân nào trong số các chuyên gia hay quan chức chính phủ được giao nhiệm vụ là tiếng nói chính thức của khoa học khi nói đến khả năng gây ung thư của hóa chất khác nhau. Một số cơ quan cả hai bên (Tác giả: ý nói cả cơ quan khoa học và cơ quan quản lý nhà nước) trong nước Mỹ và trên thế giới đưa ra ý kiến ​​về vấn đề này và họ luôn luôn không đạt được cùng một kết luận việc sử dụng các phương pháp tiếp cận tương tự, hoặc thậm chí hỏi những câu hỏi chính xác như vậy. Glyphosate là một ví dụ tiêu biểu có kết luận khác nhau của nhiều cơ quan về sự an toàn của hóa chất.

Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (International Agency for Research on Cancer – IARC) của Tổ chức Y tế Thế giới là một tổ chức cung cấp quyết định gây ung thư của chất nào đó và đánh giá của họ trong phân loại của Glyphosate là nghiêm trọng nhất, là gây tranh cãi và là cơ sở khoa học cho hầu hết các hành động pháp lý chống lại Glyphosate.

Vào tháng Ba năm 2015, sử dụng các nghiên cứu về quá trình tiếp xúc của con người với thuốc trừ cỏ Glyphosate thông qua các hoạt động trên đồng ruộng, cũng như từ các thí nghiệm trên động vật, IARC kết luận rằng “có bằng chứng hạn chế về tính gây ung thư hạch non-Hodgkin của hoạt chất trừ cỏ Glyphosate ở người”. Vì vậy, họ phân loại Glyphosate như một chất Nhóm 2A đó là “có lẽ gây ung thư cho con người”.

Trong tháng mười một năm 2015, Cơ quan An toàn Thực phẩm của Liên minh châu Âu (European Food Safety AuthorityEFSA) xem xét cẩn thận khả năng gây ung thư của Glyphosate rất nghiêm túc. Rà soát của họ, điều quan tâm duy nhất là sự tiếp xúc với thuốc trừ cỏ Glyphosate qua thực phẩm, đã từ chối phân loại Glyphosate như một chất gây ung thư. Lưu ý rằng “tất cả các chuyên gia của các nước thành viên của EU không có một ai đồng ý rằng dữ liệu dịch tễ học (ví dụ đối với con người) từ các nghiên cứu động vật là bằng chứng chứng minh quan hệ nhân quả giữa việc tiếp xúc với thuốc trừ cỏ Glyphosate và sự phát triển của bệnh ung thư ở người “.

Tại Hoa Kỳ, Chương trình Độc lý Quốc gia (National Toxicology Program – NTP), trong đó bao gồm các bộ phận của một số cơ quan chính phủ Hoa Kỳ như Viện Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia (National Institutes of Health – NIH), Trung Tâm Kiểm Soát và Ngừa Bệnh (Centers for Disease Control and Prevention – CDC) và Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (Food and Drug Administration – FDA), đóng vai trò tương tự như IARC. Nhóm này được giao nhiệm vụ lưu trữ một danh mục các hóa chất “được biết đến là [a] chất gây ung thư của con người” hay “được dự đoán một cách là chất gây ung thư của con người” được cập nhật trên cơ sở bán thường xuyên. Cập nhật mới nhất của họ (tháng Mười năm 2016) không liệt kê Glyphosate như hoặc là một chất được biết đến gây ung thư hoặc như dự đoán một cách hợp lý là một trong những chất gây ung thư.

Vào tháng 5 năm 2016, một cuộc họp chung của Tổ chức Y tế Thế giới và Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO) đã được triệu tập để thảo luận về mối đe dọa Glyphosate có đối với con người khi nó xâm nhập vào cơ thể như một dư lượng trên thực phẩm. Cuộc họp này, giống như EFSA, kết luận “Glyphosate đó là khó có thể đặt ra một nguy cơ gây ung thư cho con người tiếp xúc thông qua chế độ ăn uống.”

Tại sao khó xác định nguyên nhân gây ung thư ?

Tìm ra một chất gây ung thư không phải là một nhiệm vụ dễ dàng vì nhiều lý do. Thứ nhất, nguy cơ ung thư của một cá nhân thường được biểu lộ theo tỷ lệ phần trăm cơ hội mà một người sẽ phát triển một loại ung thư trong vòng đời của họ và khả năng bị ung thư chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền và môi trường. Điều đó làm cho nó khó có thể căn cứ duy nhất trong bất kỳ một nguyên nhân nào. Một số hóa chất có thể làm tăng nguy cơ này rất trực tiếp và rõ ràng với tiếp xúc tối thiểu, trong khi những người khác có thể gây nguy cơ chỉ ở mức tiếp xúc nhất định, trong thời gian nhất định hoặc thông qua các tuyến đường nhất định. Trong trường hợp sau, giới hạn an toàn có thể được thiết lập bằng cách thiết lập mức tiêu thụ chấp nhận được.

Thứ hai, thiết kế nghiên cứu để xác định giới hạn tiếp xúc hoặc tiềm năng gây ung thư của bất kỳ một hóa chất nào bị cản trở bởi sự thật rằng người ta không thể vô luần thường đạo lý để thiết kế một nghiên cứu có chủ tâm về phơi nhiễm trên cơ thể con người với nồng độ khác nhau của một loại hóa chất chưa biết được mức độ an toàn. Điều đó có nghĩa các nhà khoa học chỉ còn lại với các tùy chọn ít chính xác bao gồm cả nghiên cứu quy mô lớn của các quần thể tình cờ tiếp xúc với một chất hóa học, các nghiên cứu thực hiện trên động vật thí nghiệm, hoặc nghiên cứu trên các dòng tế bào. Tất cả những phương pháp gần đúng này tùy thuộc vào những bất đồng về loại dữ liệu mà người ta nên cho phép hoặc loại bỏ trong việc đưa ra quyết định.

Bản chất của nghiên cứu bao gồm việc xem xét tiềm năng gây ung thư của Glyphosate là một trong những lý do dẫn đến sự kết luận khác nhau đạt được bởi các cơ quan khác nhau và liên quan đến lập luận cực kỳ phức tạp tạo ra khoảng cách thống nhất cách xa nhau giữa nhiều ngành khoa học. Một sự khác biệt lớn giữa kết luận “chất gây ung thư có thể xảy ra” của IARC và những mối quan tâm trong kết luận của EFSA là chất cụ thể gì cần được xem xét. Ở đây, EFSA đã giải thích một sự khác biệt trong cách tiếp cận:

Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu về Ung thư (IARC) cho biết hồi đầu năm nay rằng Glyphosate là tác nhân gây ung thư (genotoxic) và sẽ “có lẽ” gây ung thư ở người. Tuy nhiên, báo cáo của IARC đã xem xét Glyphosate cả ở mức độ là một hoạt chất lẫn sản phẩm có chứa Glyphosate. Nghĩa là nhóm tất cả các công thức không phân biệt thành phần của chúng. Nhưng đánh giá của EU lại khác, Glyphosate được coi chỉ là Glyphosate.

Một vấn đề bàn cãi khác xoay quanh trong cuộc tranh luận của các nghiên cứu trên cơ thể động vật cũng được xem xét trong đánh giá. Có một sự khác biệt cơ bản giữa các quyết định IARC và EFSA liên quan đến việc nghiên cứu động vật khác nhau đang được xem xét, theo EFSA:

Các đánh giá của hội đồng thẩm định EU đã kết luận rằng không có sự gia tăng đáng kể tỷ lệ mắc ung thư có thể quan sát thấy trong bất kỳ nhóm động vật nào được xử lý với chín nghiên cứu dài hạn trên chuột đã được xem xét. IARC, ở góc độ khác lại giải thích hai nghiên cứu hiển thị các hiệu ứng gây ung thư có ý nghĩa về mặt thống kê. Tương tự, với các nghiên cứu chuột, IARC xác định xu hướng gây dương tính ung thư trong hai nghiên cứu mà hội đồng thẩm định của EU đánh giá là không đáng kể.

 Hơn nữa, các cuộc tranh luận khoa học đã được phức tạp do những cáo buộc về tác động không đúng của Monsanto đối với các nhà khoa học tiến hành đánh giá,  trong số đó có người đã từng là chuyên gia tư vấn cho Monsanto hoặc nhận tiền từ Monsanto. Tương tự như vậy, Monsanto đã bị cáo buộc can thiệp đằng sau vào quá trình đánh giá của hội đồng thẩm định đối với một số tài liệu nghiên cứu liên quan đến Glyphosate.

Trường hợp vụ án Johnson và Monsanto với cáo buộc rằng đó là sự kết hợp đặc biệt của hóa chất trong các sản phẩm Roundup mà Johnson sử dụng (Roundup Pro và Ranger Pro), chứ không phải chỉ là Glyphosate gây ra bệnh ung thư cho người đàn ông này. Ngoài ra, việc bị hấp thụ những chất cơ bản trong khi sử dụng thuốc trừ cỏ, ung thư, dịch tễ học và độc tố thì một bồi thẩm đoàn không chuyên (non-specialists) đã phải thông qua những tranh cãi về cơ sở lập luận, những thành kiến và hoàn cảnh để xác lập lại một phán quyết về một chủ đề tranh cãi đáng kể trong cộng đồng khoa học. Trường hợp đã được quyết định sau ba ngày kể từ khi ban giám khảo cân nhắc.

Có một phán quyết pháp lý luôn luôn duy trì một sự thật khoa học?

Trong trường hợp vụ án Johnson và Monsanto, một ban bồi thẩm được yêu cầu để quyết định các nguyên nhân có thể có của một căn bệnh, thường bị thách thức bởi vì đôi khi họ có tác dụng yêu cầu sự chắc chắn khi sự chắc chắn như vậy không tồn tại ngay cả trong cộng đồng chuyên gia, như đã thảo luận trong Khoa học Phổ thông (Popular Science):

Trường hợp ... mà cố gắng chứng minh rằng một loại hóa chất hoặc sản phẩm cụ thể là nguyên nhân của một căn bệnh như ung thư, rất phức tạp: họ dựa chủ yếu vào ban bồi thẩm, gồm các thành viên của cộng đồng, tìm kiếm mọi khía cạnh và đi đến kết luận về những bằng chứng được tạo ra thông qua nghiên cứu khoa học và y tế.

Nhưng có một vấn đề với điều này: Trong cộng đồng y tế, phần lớn các bằng chứng này là lộn xộn và vẫn còn cuộc tranh luận. Lấy gì để hệ thống pháp luật xem xét đủ bằng chứng nhằm chứng minh rằng phơi nhiễm gây bệnh là khác nhau từ các tiêu chuẩn của khoa học hay là cố gắng để phù hợp với cả hai thì điều này có thể là một sự may rủi.

Edward Cheng, một giáo sư tại Trường Luật Vanderbilt, chuyên về các quá trình pháp lý nói rằng cho phép bằng chứng chuyên môn hoặc bằng chứng khoa học được trình bày tại tòa án. Ông giải thích cho chúng tôi qua email rằng quan hệ nhân quả, một nhà khoa học được liên hệ thường cảnh giác với việc làm là nói thẳng hoặc bóng gió (ngầm) những gì ban bồi thẩm yêu cầu để đưa ra phán quyết sai lầm cá nhân như trong một trường hợp của vụ án Johnson và Monsanto:

Để phục hồi cho một sai lầm cá nhân, nguyên đơn phải chứng minh rằng bị đơn (hoặc sản phẩm của bị đơn) gây ra những thiệt hại. Vì vậy, ngay cả khi nó không được thừa nhận một cách rõ ràng thì cuộc điều tra nguyên nhân là ngầm ở chỗ đó. Và lý do chính đáng cho quan hệ nhân quả đó là tiêu đề cho một cuộc tranh luận. Trong phạm vi mà trách nhiệm pháp lý của sản phẩm có xu hướng nghiêng về phía trách nhiệm nghiêm ngặt (có nghĩa là trách nhiệm mà không có lỗi) thì nguyên nhân trở thành then chốt. Và quan hệ nhân quả, trong khi dễ dàng để khẳng định thì lại là điều rất khó khăn để chứng minh.

Bồi thẩm đoàn tin chắc là (trong một số trường hợp) tổ chức của các công ty phải chịu trách nhiệm vì đã gây ra vấn đề sức khỏe mà sau này nghiên cứu khoa học đã kết luận tìm thấy là không liên quan. Có một ví dụ đặc biệt nghiêm trọng từ những năm 1980, Tòa án Tối cao của Rhode Island duy trì một phán quyết của bồi thẩm đoàn rằng thừa nhận có một mối liên hệ giữa chấn thương ở đầu của một người đàn ông từ một tai nạn xe hơi và qua đời do ung thư phổi một năm sau đó. Không có lý lẽ khoa học chính đáng được thực hiện để hỗ trợ cho một tranh chấp như vậy, nhưng người lái xe gây ra tai nạn xe hơi đã được yêu cầu phải trả tiền cho gia đình của người đàn ông chết vì ung thư phổi 110.000 $.

Trong những năm 1980 và những năm 90, nhà sản xuất silicone Dow Corning đã bị kiện với cáo buộc rằng cấy ghép của họ gây ra bệnh ung thư vú và một loạt các bệnh khác. Cuối cùng họ đã phải trả 3.2 tỷ $ để giải quyết đòi hỏi như vậy. Năm 1999, Viện Y học của NIH (National Institutes of Health – Viện sức khỏe quốc gia) đã được giao nhiệm vụ điều tra các mối quan hệ giữa cấy ghép vú và ung thư, “Kiểm tra hơn 1.200 tài liệu tham khảo, nhóm giải quyết những câu hỏi lớn về cấy ghép”, tờ New York Times đưa tin vào thời điểm đó, “Trong tất cả mọi trường hợp, ủy ban kết luận, không có bằng chứng thuyết phục rằng cấy ghép là có lỗi”.

Trong các nghiên cứu sau đó đã chứng minh có một liên kết tiềm năng để hình thành một hình thức cực kỳ hiếm của ung thư (sự phân hóa tế bào lymphoma lớn, hoặc ALCL) có thể hình thành trong mô sẹo kết hợp với phẫu thuật cấy ghép ngực. Nói chung, đây không phải là bệnh được giải quyết bởi hầu hết các hành động pháp lý chống lại Dow Corning.

Hiện nay, những cuộc tranh luận tương tự xảy ra trong phòng xử án trên khắp nước Mỹ liên quan đến trách nhiệm trong vụ  Johnson & Johnson Baby Powder  (bột phấn rôm trẻ em) bị mắc lừa trong các trường hợp ung thư buồng trứng và u trung biểu mô. Chúng tôi đã hỏi Cheng mức độ thường xuyên bồi thẩm đoàn có thể nhận được các vấn đề như thế này là sai thì ông nói với chúng tôi rằng một câu hỏi như vậy khó có thể trả lời một cách tự tin:

Có một vài lý do tại sao điều này là một câu hỏi khó trả lời. Thứ nhất, các cuộc thảo luận về những sai lầm thì ban bồi thẩm thường xuyên xem lại những sai lầm lịch sử tương tự đã diễn ra. Dường như nếu các trường hợp năm 1980 hoặc trường hợp năm 1990 cùng được đưa lên mỗi khi ai đó muốn đề nghị bồi thẩm đoàn thừa nhận là không biết những gì họ đang làm. Nhưng dù với quyết định ngu ngốc nổi tiếng trong mối thập kỷ thì cũng không có nghĩa là tòa đã hành xử một cách không có quy tắc.

Thứ hai, đối với hầu hết các trường hợp đã giải quyết thì dù các trường hợp đó đi đến phán quyết cũng không có nghĩa đó là một trường hợp tiêu biểu. Nói một cách rõ ràng là thường có một cuộc tranh cãi sôi nổi trong cộng đồng khoa học - trong những trường hợp như thế này là làm thế nào để kết luận rằng ban giám khảo là “thiếu sót”? Trên thực tế, những gì nếu ban giám khảo là “đúng” (mức độ chính xác tương tự như trong khoa học dự báo thời tiết) vào thời điểm đó, nhưng còn những thay đổi khoa học?

Đây là một trong những vấn đề mà Cheng đang tích cực nghiên cứu. “Những gì chúng ta cần là xem xét lại một cách có hệ thống (bài bản) hơn”, ông nói với chúng tôi.

Quy tắc nào có ý nghĩa đối với tôi ?

Kể từ sau phán quyết trong vụ án Johnson và Monsanto, chủ đề nguy cơ ung thư của Glyphosate đã trở nên nổi bật trên các phương tiện truyền thông. Sau phán quyết, Nhóm công tác phi lợi nhuận môi trường (non-profit Environmental Working Group – EWG) đã công bố một báo cáo, cáo buộc Glyphosate ở mức cao được tìm thấy trong các loại ngũ cốc thường được sử dụng cho trẻ em, chẳng hạn như Quaker Oats Old Fashioned hoặc Cheerios.

Kết hợp với những tin tức về phán quyết, điều này làm cho nỗi sợ hãi Glyphosate trở nên lớn hơn khi có một cú đấm thú hai là các cửa hàng như CBS báo cáo một số sản phẩm thực phẩm cho thấy “[Glyphosate] mức độ cao hơn so với những gì một số nhà khoa học xem xét an toàn cho trẻ em”. Trong khi “một số các nhà khoa học” có thể xem xét các mức được trình bày bởi EWG là nguy hiểm cho trẻ em, thì phương pháp của EWG gây rất nhiều tranh cãi và những phát hiện của họ chủ yếu liên quan đến phán quyết trong vụ án Johnson và Monsanto.

Ban bồi thẩm trong trường hợp vụ án Johnson và Monsanto cần có câu hỏi cụ thể để trả lời nhưng không ai trong số họ tham gia xác định chất gây ung thư khi tiếp xúc với thuốc trừ cỏ Glyphosate trong thực phẩm. Theo quan điểm của chuyên môn thì ban bồi thẩm không chỉ xem xét riêng Glyphosate mà còn xem xét các thành phần hóa học khác chứa trong Roundup Pro và Ranger Pro mà Johnson đã tiếp xúc với nồng độ cao trong khi làm việc chăm sóc cỏ của mình. Điều này có ý nghĩa với mức độ cao hơn nhiều so với dư lượng sẽ được tìm thấy trong thực phẩm và trong đó bao gồm các con đường phơi nhiễm khác nhau là quan trọng hơn trong thực phẩm.

Những người biện hộ cho Glyphosate lại cho rằng hóa chất này đã được sử dụng một cách an toàn trong hơn 40 năm, là cần thiết cho nông nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới và thiếu một sự thay thế rõ ràng an toàn hơn. Sau phiên tòa, Scott Partridge, phó chủ tịch của Monsanto, khẳng định rằng “phán quyết không thay đổi hơn bốn chục năm sử dụng an toàn và các nghiên cứu khoa học đứng đằng sau sản phẩm”. Công ty đã công bố họ có ý định kháng cáo vụ án này.

Những người ủng hộ quyết định của ban bồi thẩm lại cho rằng đây là một trường hợp mang tính bước ngoặt chống lại tập đoàn Monsanto có quá nhiều điều bẩn thỉu, thể hiện cả sự cẩu thả của công ty và sự sẵn sàng của họ để che giấu bằng chứng về các tác hại nhằm bảo vệ lợi nhuận. Họ tranh luận quyết định bồi thẩm đoàn để khẳng định rằng Glyphosate là rõ ràng gây ung thư. Theo luật sư Johnson, Monsanto đang đối mặt với hơn 4.000 trường hợp tương tự trên khắp nước Mỹ.

Trong khi một bồi thẩm đoàn có thể phán quyết một cách chắc chắn rằng Roundup Pro và Roundup Ranger gây ra ung thư cho Dewanye Johnson, thì các nhà khoa học - không bị trói buộc bởi các quy tắc pháp lý của chứng cứ hoặc áp lực để làm cho bản án kịp thời - tiếp tục có những nghi ngờ của họ.

D.A.M

Dịch từ: Cancer, Juries, and Scientific Certainty: The Monsanto Roundup Ruling Explained. (AgroNews. 20/8/2018).