Lạm dụng quá liều: Vượt trên Thái Lan, gánh nhiều hệ luỵ

10/09/2018  03:00 GMT+7

Việt Nam đang là nước dùng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nhiều và khó kiểm soát khi khối lượng thuốc BVTV sử dụng trên cây trồng lên tới 2kg/ha/năm, cao hơn cả một số nước trong khu vực như Thái Lan, Bangladesh, Senegal. Điều này dẫn tới nhiều hệ luỵ cho ngành nông nghiệp thế mạnh của Việt Nam.

Hoa quả tươi lâu nhờ... thuốc bảo vệ thực vật chỉ 25.000 đồng

Việt Nam nhập hơn 200 triệu USD thuốc trừ sâu Trung Quốc

2 tỷ USD hóa chất, thuốc trừ sâu Trung Quốc về Việt Nam

40% trong số 120 tấn nhập khẩu là thuốc trừ cỏ

Thống kê của Bộ NN-PTNT cho thấy, năm 2017, Việt Nam chi tới 989 triệu USD để nhập khẩu thuốc trừ sâu và nguyên liệu, tăng 36,4% so với năm 2016. Theo đó, nguồn nhập chủ yếu là từ Trung Quốc chiếm tới 52,6% tổng giá trị của mặt hàng này.

Trung bình khoảng 5 năm trở lại đây, mỗi năm Việt Nam chi khoảng 500-700 triệu USD để nhập khẩu nguyên liệu và thuốc trừ sâu từ Trung Quốc. Trong số này, chiếm 48% là thuốc trừ cỏ (19.000 tấn), còn thuốc trừ sâu và trừ bệnh chiếm khoảng 32% (16.400 tấn), ngoài ra còn một lượng thuốc điều hòa sinh trưởng khoảng 900 tấn. Riêng mặt hàng thuốc trừ cỏ được sử dụng trên mọi đối tượng cây trồng, trong đó dùng trên lúa là nhiều nhất.

Vỏ thuốc bảo vệ thực vật vứt đầy bờ ruộng sau khi sử dụng xong

Với giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng chóng mặt, chủng loại hoạt chất thuốc BVTV cũng ngày một nhiều hơn. Cụ thể, đến năm 2009, Bộ NN-PTNT cho phép 886 loạt hoạt chất và hơn 2.500 loại thương phẩm sử dụng ở Việt Nam. Đến năm 2001, nước ta có 900 loại hoạt chất và các hỗn hập chất BVTV được đăng ký sử dụng.

Theo ông Nguyễn Xuân Hồng, nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT), trong các năm từ 2015-2017, trung bình mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 120.000 tấn thuốc BVTV, trong đó trên 40% là thuốc trừ cỏ. Những năm gần đây, lượng thuốc trừ cỏ được sử dụng trong sản xuất có xu hướng ngày càng tăng.

Hiện nay, danh mục thuốc trừ cỏ được phép sử dụng tại Việt Nam gồm 234 hoạt chất và hỗn hợp các hoạt chất với 713 tên thương phẩm.

Chia sẻ tại hội thảo “Thực trạng, thách thức trong quản lý và sử dụng thuốc trừ cỏ tại Việt Nam” vừa diễn ra, Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Hồ Xuân Hùng đánh giá, Việt Nam đang là một trong những quốc gia sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhiều và khó kiểm soát.

Khối lượng hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật trên 1ha cây trồng/năm ở Việt Nam cao hơn hẳn một số nước trong khu vực. Cụ thể, con số này ở Việt Nam là 2 kg/ha, trong khi tại Thái Lan là 1,8kg/ha, Bangladesh là 1,1kg/ha và Senegal chỉ 0,2kg/ha, ông dẫn chứng từ số liệu của Viện Tài nguyên môi trường quốc tế.

Báo động tình trạng lạm dụng thuốc BVTV

Thuốc trừ cỏ hiện nay vẫn chiếm vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, giúp cải thiện sức lao động cho người nông dân. Song theo ông Hùng, ngày càng xuất hiện tình trạng lạm dụng thuốc trừ cỏ, dẫn tới nhiều hệ lụy tác hại cho sản xuất, môi trường, sức khỏe cộng đồng, đe dọa sự phát triển bền vững của nông nghiệp.

Vì vậy, tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc trừ cỏ là một yêu cầu đặc biệt cấp bách hiện nay.

Việt Nam xuất hiện tình trạng lạm dụng thuốc BVTV như một thói quen

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Xuân Hồng cũng nhận định, thuốc trừ cỏ có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu không có tác động của các biện pháp bảo vệ thực vật, sâu bệnh hại và cỏ dại thì năng suất cây trồng có thể giảm tới 70-75%, trong đó riêng cỏ dại làm giảm năng suất 40-45%.

Theo ông Hồng, mặc dù pháp luật về quản lý thuốc trừ cỏ đã khá đầy đủ, đồng bộ, hài hòa với các nước trong khu vực và trên thế giới; bên cạnh đó, công nghệ để phân tích, kiểm định chất lượng về thuốc BVTV cũng từng bước được nâng cao. Thế nhưng, sản xuất của Việt Nam còn nhỏ, manh mún, hiểu biết của người sử dụng thuốc còn hạn chế, người nông dân hiện vẫn đang sử dụng thuốc dựa vào thói quen.

Trong khi đó, số lượng cửa hàng và người buôn bán thuốc còn quá nhiều, điều kiện kinh doanh còn lỏng lẻo, lực lượng thanh tra mỏng. Vai trò của chính quyền địa phương trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc buôn bán, sử dụng thuốc trên địa bàn quản lý chưa được quan tâm và phát huy đúng mức.

Để quản lý, sử dụng thuốc trừ cỏ một cách hiệu quả, ông cho rằng, ngoài việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý thuốc theo hướng chặt chẽ, đủ sức răn đe, có thể áp dụng kỹ thuật camera giám sát việc sử dụng thuốc trên đồng ruộng để phát hiện vi phạm và xử lý nghiêm. Ngoài ra, cùng với loại bỏ các thuốc độc hại cần bố trí kinh phí và thực hiện việc đánh giá, phát hiện các thuốc kém chất lượng, hiệu lực thấp để loại bỏ khỏi Danh mục thuốc được phép sử dụng ở Việt Nam, ông cho hay.

Theo các chuyên gia trong ngành, Việt Nam cần có lộ trình để giảm thiểu lượng thuốc BVTV dùng trên cây trồng, khuyến khích sử dụng các loại thuốc BVTV thân thiện môi trường, ít độc hại và loại bỏ các loại thuốc đã bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế.

Đại diện Croplife Việt Nam cũng thừa dụng làm dụng thuốc trừ cỏ, sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cao, sử dụng sai mục đích, đặc biệt là trình độ nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm xã hội của người sử dụng thuốc trừ cỏ tại Việt Nam còn hạn chế. Đó là chính là nguyên nhân gây ra một số ảnh hưởng không mong muốn tới sức khỏe cộng đồng và môi trường thời gian gần đây.

Theo đó, tổ chức này ủng hộ chủ trương thắt chặt công tác quản lý thuốc BVTV nhằm đảo bảo an toàn và lợi ích cho nông dân, người tiêu dùng. Song, mọi quyết định pháp lý trước khi ban hành cần dựa trên cơ sở khoa học và tiêu chuẩn quốc tế được công nhân, cũng như cân nhắc đánh giá công khai về tác động kinh tế, xã hội và môi trường với lộ trình phù hợp.

Như Băng