Năm 2016 - Canada quyết định đánh giá lại 2,4-D

Sau năm 2013 (lần 2), Canada thực hiện Xem xét Đặc biệt (Special Review)1 về 2,4-D trong năm 2016 (lần 3) để cho cộng đồng xã hội đóng góp ý kiến. Thời gian tiếp nhận ý kiến là 45 ngày kể từ 31/3/2016 đến 15/5/2016.

1.0 Giới thiệu

  Căn cứ tiểu mục 17 (2) của Đạo Luật Sản phẩm Phòng trừ Dịch hại, Cơ quan quản lý dịch hại Canada (PMRA) đã khởi xướng Xem Xét Đặc Biệt các sản phẩm kiểm soát dịch hại chứa (2,4-dichlorophenoxy) acid axetic, được gọi là 2,4-D dựa trên quyết định của Na Uy vào năm 2000 (Công ước Rotterdam, 2001) để ngăn cấm việc sử dụng các thành phần hoạt chất này do sức khỏe con người và môi trường. Việc khởi xướng Xem Xét Đặc Biệt đối với 2,4-D đã từng được công bố vào tháng 12 năm 2013 (Canada, 2013a).

 Theo yêu cầu của tiểu mục 18 (4) của Đạo Luật Sản phẩm Phòng trừ Dịch hại, PMRA đã đánh giá các khía cạnh được quan tâm liên quan đến các sản phẩm kiểm soát dịch hại có chứa 2,4-D, chính vì vậy đã thúc đẩy việc Xem Xét Đặc Biệt. Các khía cạnh của mối quan tâm liên quan đến môi trường được xác định là:

• Khả năng di động cao và tiềm năng rửa trôi của 2,4-D đến môi trường sống dưới nước từ các khu vực sử dụng thuốc.

• Các nguy cơ tiềm ẩn cho thực vật thủy sinh nơi 2,4-D bị rửa trôi.

 Nguy cơ tiềm ẩn cho sinh vật thủy sinh, khác với thực vật thủy sinh, hoặc sự thẩm thấu của 2,4-D đến mạch nước ngầm không cần quan tâm vì đã được xác định dựa trên thông tin được cung cấp bởi Na Uy.

 Ngoài ra, những vấn đề liên quan ảnh hưởng đến sức khỏe con người thì Na Uy (Rotterdam Công ước năm 2001) kết luận rằng “2,4-D độc vừa phải và gây dị ứng cho mắt, nhưng những điều này được khắc phục bằng cách lựa chọn hoặc quy trình  sản xuất hoặc lựa chọn các chất hoạt tính có trong thành phần. Hơn nữa, còn có một số nghiên cứu cho thấy một nguy cơ ung thư ở mô mềm và bạch huyết, nhưng bằng chứng là không đủ thuyết phục để dán nhãn nguy cơ ung thư cho sản phẩm”. Thêm nữa, sự chấp thuận trước (Prior Informed Consent – PIC) trong Thông tư XIII (Công ước Rotterdam, 2001) chỉ ra rằng tác động của các hành động quản lý sau cùng (tác giả: ghi nhãn hướng dẫn sử dụng) liên quan đến sức khỏe con người đã “giảm nguy cơ ung thư ở những người bình thường sử dụng thuốc trừ dịch hại giống như việc sử dụng Weedar 64 trong sản xuất nông nghiệp”2.

 PMRA cũng cân nhắc rằng không có mối quan tâm cụ thể liên quan đến độc  cấp tính của 2,4-D được xác định dựa trên thông tin được cung cấp bởi Na Uy, khía cạnh này đã không được xem xét trong Xem Xét Đặc Biệt này. Ngoài ra, Na Uy đã không kết luận đối với tiềm năng gây ung thư của 2,4-D mà đã chỉ ra rằng “bằng chứng là không đủ thuyết phục để dán nhãn nguy cơ ung thư cho sản phẩm” (Công ước Rotterdam, 2001). Tuy nhiên, PMRA cho rằng các Thông tư XIII của PIC cũng chỉ ra một nguy cơ giảm ung thư ở người như một hiệu ứng kỳ vọng của các hành động quản lý sau cùng liên quan đến sức khỏe con người, tiềm năng gây ung thư của 2,4-D được coi là một phần của Xem Xét Đặc Biệt này.

2.0 Sử dụng 2,4-D ở Canada

 2,4-D, một loại thuốc trừ cỏ chọn lọc, hiện đang đăng ký tại Canada để sử dụng trên cỏ, trong rừng và vườn cây, thức ăn chăn nuôi trên cạn và cây lương thực, trên diện tích của những vùng đất không trồng cây thực phẩm ở khu công nghiệp và cư dân sinh sống. 2,4-D có mặt trong các sản phẩm kiểm soát dịch hại hiện đăng ký bao gồm acid tự do, như amin (dimetylamin, DMA; isopropylamine, IPA; hoặc triisopropanolamine, TIPA) hoặc muối choline, hoặc ở dạng este (2-ethylhexyl, Ehe; butoxyethyl este , BEE). Tất cả các sản phẩm kiểm soát dịch hại hiện đăng ký có chứa các dạng trên của 2,4-D được coi là đối tượng trong Xem Xét Đặc Biệt này.

 PMRA công bố quyết định tái thẩm định 2,4-D năm 2008 (Canada, 2008) và một bản cập nhật cho 2,4-D trong năm 2013 (Canada, 2013b). Kết quả của việc tái thẩm định, PMRA xác định rằng sản phẩm có chứa 2,4-D không thể hiện những rủi ro không thể chấp nhận đối với sức khỏe con người và môi trường khi sử dụng theo các điều kiện sửa đổi việc sử dụng. Các điều kiện sửa đổi về sử dụng được coi như một yêu cầu của việc tái thẩm định bao gồm ngừng các sản phẩm kiểm soát dịch hại có chứa các dạng Diethanolamine của 2,4-D, loại bỏ các mục đích sử dụng thủy sản, hạn chế về số lần sử dụng thuốc và bổ sung các vùng đệm để bảo vệ môi trường.(Những dòng chữ nghiêng trong bài là của tác giả để nhấn mạnh).

3.0 Các vấn đề của 2,4-D được quan tâm trong Xem xét Đặc biệt

 Những mối quan tâm được xác định trong quyết định năm 2000 của Na Uy để cấm tất cả các công dụng của 2,4-D (Công ước Rotterdam, 2001) được coi là cần có trong Xem Xét Đặc Biệt này gồm:

• Tiềm năng gây ung thư của 2,4-D;

• Khả năng di động cao và tiềm năng rửa trôi của 2,4-D đến môi trường sống dưới nước từ các khu vực sử dụng 2,4-D;

• Các nguy cơ tiềm ẩn cho thực vật thủy sinh của 2,4-D sau khi bị rửa trôi.

4.0 PMRA đánh giá các vấn đề trong Xem Xét Đặc Biệt.

 Sau khi khởi xướng việc Xem Xét Đặc Biệt về 2,4-D, PMRA yêu cầu thông tin từ các tỉnh và các sở có liên quan thuộc liên bang, các cơ quan phù hợp với tiểu mục 18 (2) của Đạo Luật Sản phẩm Phòng trừ Dịch hại. Đáp lại, PMRA đã nhận được các dữ liệu quan trắc về nước của 2,4-D .

 Để đánh giá các khía cạnh của mối quan tâm đối với 2,4-D, PMRA đã xem xét các thông tin khoa học có liên quan hiện có, bao gồm thông tin xem xét để đánh giá lại của 2,4-D (Canada năm 2005; Canada năm 2006; Canada năm 2007; Canada, 2008; Canada, 2013b) và bất kỳ thông tin liên quan thu được kể từ đó, chẳng hạn như thông tin về báo cáo sự cố ở Canada, số liệu quan trắc nước mặt, đánh giá các nghiên cứu dịch tễ học về thuốc trừ cỏ 2,4-D phenoxy và các loại thuốc khác có sẵn ở nhiều vùng.

4.1. Mối quan tâm liên quan đến sức khỏe con người

Tiềm năng gây ung thư của 2,4-D

 PMRA xem xét lại các cơ sở dữ liệu về độc tính có sẵn của 2,4-D và xác định rằng dựa trên in vitro và in vivo, mọi dạng của 2,4-D (dạng acid, muối hoặc este) là không gây đột biến hoặc là tác nhân gây ung thư (genotoxic) và rằng toàn bộ bằng chứng chỉ ra rằng 2,4-D là không gây ung thư ở chuột nhắt, chuột bạch và chó (Canada, 2007).

 Ngoài các nghiên cứu độc tính ở động vật, PMRA cân nhắc đánh giá của các chuyên gia về những chứng cứ sẵn có từ nhiều nghiên cứu dịch tễ học trên thuốc trừ cỏ 2,4-D phenoxy và các thuốc khác. Những nghiên cứu trong quá khứ tập trung vào mối liên quan giữa tiếp xúc của con người đến thuốc trừ cỏ chlorophenoxy (nhóm các hóa chất trong đó có 2,4-D và 2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid [2,4,5-T]) và sự phát triển của ung thư máu (khối u ác tính của máu) hoặc khối u rắn, ung thư mô mềm và bệnh u lympho không hodgkin (non-Hodgkin lymphoma – NHL. Bệnh này còn được gọi là ung thư hạch không Hodgkin. Đây là ung thư bắt nguồn từ hệ thống bạch huyết, sau đó bệnh lây lan khắp cơ thể). Đánh giá các nghiên cứu dịch tễ học đã công bố có sẵn, PMRA cho rằng trong khi một số các nghiên cứu cho thấy có một liên đới có thể xảy ra giữa việc tiếp xúc của 2,4-D với sự phát triển các khối u trong cơ thể người. Nhưng cũng có các nghiên cứu dịch tễ học khác lại cho rằng không đủ cơ sở để kết luận như vậy (Canada, 2005; Canada năm 2006, Canada, 2007; Burns và Swaen, 2012; Pahwa et al 2012.; Ntzani et al. năm 2013; von Stackelberg năm 2013; Schinasi và Leon, 2014). Hơn nữa, đã có kết luận rằng các nghiên cứu dịch tễ học có sẵn cung cấp bằng chứng không rõ ràng hoặc không cho một mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với 2,4-D (thuốc diệt cỏ và chlorophenoxy khác) và các loại ung thư khác ở người, trong đó có tuyến tiền liệt, vú, tuyến tụy, ruột và ung thư não (Canada, 2008, Weichenthal và cộng sự, 2010; Burns và Swaen,2012; von Stackelberg, 2013). Không có một ngiên cứu nào trong số các nghiên cứu dịch tễ học (liên quan đến tiếp xúc với 2,4-D ở người) đã có thể loại trừ các yếu tố gây nhiễu khác như: thuốc trừ sâu, chất gây ô nhiễm, phân bón và nhiên liệu, các tác nhân gây viêm nhiễm hoặc thói quen trong cuộc sống, có thể đã góp phần vào nguyên nhân của bệnh ung thư  như ở các trường hợp đã thông báo.

 PMRA cũng đã xem xét đánh giá sự tiếp xúc với 2,4-D và ung thư ở người được thực hiện bởi cơ quan quản lý khác (Canada, 2007) bao gồm việc đánh giá gần đây nhất từ Cơ quan an toàn thực phẩm châu Âu (European Commission, 2014), trong đó kết luận rằng 2,4 -D khó có khả năng gây ung thư ở người.

 Bên cạnh đó, PMRA cũng tham khảo thông tin gần đây từ Cơ quan quốc tế Nghiên cứu Ung thư (IARC) (Loomis et al., 2015), trong đó phân loại 2,4-D là có thể gây ung thư cho con người (IARC, tài liệu chưa công bố, ngày 02/3/2016). Trong khi, IARC cho thấy có bằng chứng hạn chế ở động vật (do lo ngại với việc thực hiện các nghiên cứu xác thực) và đủ bằng chứng để gây ung thư ở người của 2,4-D. Những phát hiện rằng 2,4-D gây ra stress oxy hóa và gây suy giảm miễn dịch đã được trích dẫn là cơ sở cho việc phân loại rủi ro IARC (Loomis et al., 2015). Các phân loại rủi ro của IARC không đánh giá rủi ro về sức khỏe của con người với mức độ tiếp xúc (đó mới là nguy cơ trong thực tế), chúng không được xem xét trong các đánh giá của IARC.

 Không có báo cáo sự cố liên quan đến con người ở Canada trong cơ sở dữ liệu báo cáo vụ việc của PMRA.

 Nhìn chung, mặc dù có suy xét tới, nhưng các liên kết trong dịch tễ học là không nhất quán. Phải thừa nhận rằng có rất nhiều yếu tố khác có thể góp phần vào nguyên nhân của các trường hợp ung thư được báo cáo, thông tin từ cơ sở dữ liệu báo cáo vụ việc của PMRA và thực tế là “trọng lượng” của bằng chứng từ các nghiên cứu động vật được thiết kế để hiển thị quan hệ nhân quả không hỗ trợ hiệu gây ung thư.

 PMRA đã kết luận rằng 2,4-D không thể được phân loại như một chất gây ung thư của con người.

4.2 Các mối quan tâm liên quan đến môi trường

Khả năng di động cao và tiềm năng rửa trôi từ các khu vực sử dụng 2,4-D đến động, thực vật thủy sinh.

 Tác động của các dẫn xuất 2,4-D đến môi trường có thể được chia thành hai loại chính, acid/nhóm amin (acid, DMA, IPA, TIPA) và nhóm este (Ehe, BEE). Các dạng 2,4-D acid và amin rất dễ hòa tan trong nước, trong khi các dạng este không tan trong nước (Canada, 2005; Canada, 2007). Các dạng khác nhau của 2,4-D là không bay hơi hoặc bay hơi thấp (trừ dạng este). Hằng số phân ly của 2,4-D (pKa 2.8) chỉ ra rằng 2,4-D sẽ có mặt ở dạng ion theo các điều kiện pH phổ biến trong hầu hết các loại đất và nước ở Canada. Các dạng amin và cholin phân tách thành dạng acid chỉ cần khoảng vài phút trong nước.

 Thủy phân không phải là một con đường biến đổi quan trọng của 2,4-D acid và các dạng amin hoặc dạng este nếu pH ở mức thấp hoặc trung tính. Tuy nhiên, nó là một con đường quan trọng của sự biến đổi của các este với acid trong điều kiện pH kiềm (chu kỳ bán rã của Ehe và BEE là 2 ngày và 0,07 ngày, tương ứng). Quang phân (phototransformation) cũng không phải là một con đường biến đổi quan trọng của 2,4-D trong môi trường (Canada, 2007). Quá trình chuyển hóa sinh học hảo khí (biotransformation aerobic) là con đường chính của sự biến đổi của 2,4-D trong đất và nước. 2,4-D acid và các dẫn xuất của nó được phân loại là không bền vững hoặc bền vững yếu  trong đất và nước (thời gian bán phân hủy là  0.22 – 31 ngày ở trong đất; 0,25 – 29 ngày ở trong nước). Sản phẩm biến đổi sinh học chủ yếu của 2,4-D là carbon dioxide (CO2) trong đất và CO2, 2,4-dichlorophenol (2,4-DCP) và chlorohydroquinone (CHQ) trong nước.

 Hệ số hấp phụ carbon hữu cơ của 2,4-D (Koc < 150) cho thấy 2,4-D được hấp thụ một cách yếu ớt trong đất và vì vậy người ta cũng không thể mong đợi sự phân hủy đáng kể của nó trong đất và trầm tích. Trên cơ sở này, người ta cũng cho rằng 2,4-D linh động trong đất và nó được rửa trôi từ các diện tích được xử lý vào hệ thống thủy lợi theo hệ thống kênh dẫn thủy hoặc nước mưa (Canada năm 2005; Canada, 2007).

Nguy cơ tiềm ẩn cho thực vật thủy sinh sau khi bị rửa trôi

 Để đánh giá rủi ro tiềm năng cho các thực vật thủy sinh từ rửa trôi, PMRA chú ý đến quan trắc nước bề mặt và mô hình hóa thông tin cũng như độc tính đối với thực vật thủy sinh từ việc tiếp xúc với 2,4-D.

 PMRA tính nồng độ tiềm năng bằng ước tính nồng độ môi trường (estimated environmental concentrations – EECs) của các dạng acid/muối và este của 2,4-D trong nước bề mặt thông qua cách sử dụng PRZM/mô hình THI hoặc giả định phun phủ trực tiếp. Bên cạnh đó, các dữ liệu thô về quan trắc nước bề mặt của 2,4-D từ Canada và Hoa Kỳ đang được xem xét.

 PMRA đánh giá rủi ro đối với thực vật thủy sinh bằng cách sử dụng tỷ số rủi ro (RQ – risk quotient) được biểu thị bằng tỷ số giữa EEC đến điểm cuối nhạy cảm nhất đối với các dẫn xuất khác nhau của 2,4-D cho thực vật thủy sinh. Sau đó, so sánh tỷ số rủi ro thô đó với mức độ quan tâm (LOC – level of concern). LOC theo PMRA là 1.0 khi để 2,4-D tiếp xúc với sinh vật thủy sinh.

(Đến đây tác giả có bỏ một số đoạn vì có những thuật ngữ chuyên môn gây khó khăn cho người đọc).

 Cần lưu ý rằng EECs được tạo ra từ sử dụng giả định thận trọng (ở mức thấp nhất) vì vậy nguy cơ tiềm năng cho thực vật thủy sinh được coi là khó xảy ra. Điều này được hỗ trợ bởi các thông tin giám sát có sẵn. Khi các thông tin quan trắc nước mặt có sẵn thì rủi ro đối với các thực vật thủy sinh được coi là khó xảy ra. Dựa vào nồng độ cao nhất được phát hiện tại Canada vào dòng chảy đô thị (0,0469 mg/l) và giám sát nước bề mặt (2002 – 2014) gần đây nhất (0,011 mg/l) thì rủi ro đối với thực vật thủy sinh từ 2,4-D không phải là một mối quan tâm.

 Để giảm thiểu dòng chảy tiềm năng từ khu vực xử lý 2,4-D vào môi trường sống dưới nước, những khuyến cáo trên nhãn hiện đang được đưa vào các sản phẩm để tư vấn cho người sử dụng là biện pháp giúp làm giảm rửa trôi 2,4-D.

 Những quan ngại liên quan đến mọi khía cạnh (sự linh động và nguy cơ tiềm ẩn cho thực vật thủy sinh sau rửa trôi) đã được xác định từ các thông tin nhận được thông qua cơ sở dữ liệu báo cáo sự cố Canada.

 Do đó, dựa trên kết quả của việc đánh giá rủi ro và có tính đến các điều kiện hiện tại của sử dụng đối với các sản phẩm kiểm soát dịch hại có chứa 2,4-D, PMRA đã xác định rằng rủi ro đối với thực vật thủy sinh từ 2,4-D bị rửa trôi không phải là vấn đề quan tâm.

5.0 Quyết định đề nghị Xem Xét Đặc Biệt đối với 2,4-D

 Đánh giá thông tin khoa học có sẵn liên quan đến các khía cạnh của mối quan tâm đối với sức khỏe con người và môi trường, PMRA chỉ ra rằng các sản phẩm đã đăng ký có chứa 2,4-D được chấp nhận cho tiếp tục đăng ký có tính đến các điều kiện sử dụng hiện tại. Trên cơ sở này, PMRA đề xuất để xác nhận việc đăng ký hiện tại của sản phẩm có chứa 2,4-D để bán và sử dụng ở Canada theo tiểu mục 21 (1) của Đạo Luật Sản phẩm Phòng trừ Dịch hại.

 Đề xuất quyết định Xem Xét Đặc Biệt này là một tài liệu tham khảo. PMRA sẽ chấp nhận các ý kiến bằng văn bản về đề nghị này lên đến 45 ngày kể từ ngày công bố tài liệu này. Xin vui lòng gửi tất cả các ý kiến để công bố.

6.0 Các bước tiếp theo

 Trước khi đưa ra quyết định Xem Xét Đặc Biệt đối với 2,4-D, PMRA sẽ xem xét bất kỳ ý kiến nhận được từ cộng đồng để phản biện tài liệu thăm dò ý kiến này. Một cách tiếp cận dựa trên cơ sở khoa học sẽ được áp dụng trong việc đưa ra một quyết định cuối cùng về 2,4-D. PMRA sau đó sẽ công bố một tài liệu quyết định Xem Xét Đặc Biệt, trong đó sẽ bao gồm các quyết định, lý do cho nó, một bản tóm tắt các ý kiến nhận được trên quyết định đề xuất và phản ứng của PMRA đến những ý kiến đó.

D.A.M

Bản dịch từ link: Re-evaluation Note REV2016-08 Special Review of 2,4-D www.hc-sc.gc.ca › ... › For the Public › Consultations.

Chú thích:

1 Xem Xét Đặc Biệt (Special review) là một quá trình điều tiết thuốc trừ dịch hại ở một số nước. Thông qua đó nếu có những rủi ro bất hợp lý đối với sức khỏe con người, sinh vật không chủ đích hoặc môi trường của một loại thuốc trừ dịch hại nào đó xuất hiện thì cơ quan quản lý nhà nước sẽ xem xét, đánh giá lại. Đây là cơ hội cho công chúng có ý kiến đòi hỏi một quá trình phân tích rủi ro và những lợi ích. Nếu nguy cơ được tìm thấy lớn hơn lợi ích xã hội và kinh tế thì các biện pháp quản lý (từ sửa đổi nhãn, sử dụng và hạn chế sử dụng đến hủy bỏ hoặc đình chỉ đăng ký) có thể được bắt đầu.

2 Weedar® 64 là thuốc trừ cỏ có chứa 2,4-D của Nufarm.

Xin được giải thích cho rõ tại sao Weedar® 64 lại có tên trong nội dung. Trên nhãn của loại thuốc này có ghi “không nên đánh bắt cá trong cồn đất ngập nước có sử dụng thuốc”. Nhưng điều này Nufarm giải thích rằng, đó không phải là một tuyên bố thực thi mà chỉ vì sự an toàn tuyệt đối khi sử dụng Weedar® 64. Thực tế thì sự hạn chế này là không bắt buộc. Còn nếu cảm thấy bất an thì có thể ghi nhãn như sau: “không được đánh bắt cá trong cồn đất ngập nước có sử dụng thuốc”. Đó là lý do tại sao cách ghi nhãn (hành động quản lý cuối cùng) có thể giảm các nguy cơ từ thuốc trừ dịch hại.