Lùn sọc đen phương nam

Giới thiệu chung

Tên tiếng Anh: Southern Rice Black-Streaked Dwarf Virus – SRBSDV

Bệnh Virus lúa lùn sọc đen phương Nam (LSĐPN) được ghi nhận đầu tiên ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc năm 2001 và cũng là lần đầu tiên ghi nhận rầy lưng trắng (RLT) tham gia truyền bệnh Virus trên lúa. Sở dĩ đặt tên gọi lúa lùn sọc đen phương Nam là để phân biệt với bệnh lúa lùn sọc đen (RBSDV) đã ghi nhận từ nhiều năm trước, gây hại phổ biến ở các vùng trồng lúa phía Bắc của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và chỉ do rầy nâu nhỏ (Laodelphax striatellus) là môi giới truyền bệnh. Vụ mùa năm 2009 bệnh LSĐPN phát sinh và gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất lúa ở các tỉnh phía Bắc với 42.000 ha lúa bị bệnh. Đến nay, bệnh LSĐPN đã được ghi nhận chính thức tại 3 quốc gia là: Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản.

1.1 Triệu chứng

Cây lúa bị bệnh LSĐPN có triệu chứng chung là thấp lùn, lá xanh đậm hơn bình thường. Lá lúa bị bệnh có thể xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau bị sưng lên. Khi cây còn non gân chính trên bẹ lá cũng bị sưng phồng. Từ giai đoạn làm đòng và khi lúa có lóng, cây bị bệnh thường nảy chồi trên đốt thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân xuất hiện nhiều u sáp và sọc đen. Bị bệnh nặng cây lúa không trổ bông được hoặc trỗ bông không thoát và hạt thường bị đen. Trong điều kiện vụ mùa năm 2009 tại các tỉnh phía Bắc, lúa phát triển đến giai đoạn làm đòng có vẻ “bình thường” nhưng sau  trỗ bông không thoát hoặc vỏ hạt lúa bị đen, hạt lép lửng nhiều. Chính vì vậy, nhiều địa phương đã hoàn toàn bất ngờ và thiệt hại rất trầm trọng. Các giống lúa bị nặng bao gồm: lúa lai và lúa thuần có nguồn gốc từ Trung Quốc. Lúa chét mọc lên từ cây lúa bị bệnh cũng có các đặc điểm và triệu chứng kể trên. 

Trên cây ngô ở các vùng trồng bên cạnh hoặc ngay sau khi thu hoạch lúa mùa sớm trong khu vực lúa bị bệnh cũng biểu hiện triệu chứng xoăn lùn, lá xanh thẫm, mặt sau lá xuất hiện các u sần nổi gồ ghề chạy dọc các gân lá, bắp nhỏ và không cho thu hoạch. Nhiều nơi trong vụ đông năm 2009, có ruộng ngô bị bệnh tới 42 %.

1.2 Nguyên nhân

Virus gây bệnh LSĐPN thuộc  phân nhóm 2, nhóm Fijivirus,  họ Reoviridea.  Tiểu thể Virus hình cầu với đường kính từ 70 – 85 nm. Bệnh lây lan trên đồng ruộng do rầy lưng trắng (Sogatella furcifera Horvath) là môi giới truyền bệnh chính. Rầy nâu loại nhỏ hay còn gọi là rầy xám (Laodelphax striatellus Fallen) cũng tham gia truyền bệnh nhưng khả năng truyền bệnh kém hơn rầy lưng trắng.

1.3 Phát sinh gây hại

Virus không truyền qua hạt giống, đất, nước và qua vết thương cơ giới mà lây lan trên đồng ruộng thông qua môi giới là rầy lưng trắng và rầy nâu loại nhỏ (rầy xám), trong đó chủ yếu là rầy lưng trắng.

Quan hệ truyền bệnh giữa Virus và rầy môi giới theo kiểu bền vững. Rầy nhiễm Virus truyền được bệnh đến khi chết, rầy non lột  xác vẫn truyền được bệnh. Rầy non có khả năng truyền bệnh cao hơn rầy trưởng thành. Tuy nhiên rầy trưởng thành có khả năng bay xa hoặc theo gió nên khả năng lây bệnh trên diện rộng cao hơn.

Thời gian ủ bệnh trong cơ thể rầy từ 5 đến 25 ngày. Thời gian ủ bệnh trong cây lúa ít nhất là 5 ngày, thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của cây lúa. Cây lúa non mẫn cảm với bệnh hơn. Tuy nhiên không giống như bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá, cây lúa bị nhiễm bệnh ở giai đoạn 50 – 60 ngày sau gieo, cấy vẫn ảnh hưởng nhiều đến năng xuất.

Các giống lúa lai, lúa thuần nhập nội từ Trung Quốc hay giống lúa lai tạo trong nước sử dụng nguồn gen từ lúa lai, lúa thuần của Trung quốc thường mẫn cảm hơn so với các giống cổ truyền hoặc giống lúa nhập nội từ Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI)

Vụ lúa mùa, hè thu ở các tỉnh từ bắc trung bộ trở ra bệnh thường phát sinh sớm hơn và bệnh nặng hơn so với vụ đông xuân có nhiệt độ thấp ở đầu vụ.

Biện pháp canh tác

Cày lật gốc rạ trên các ruộng bị bệnh vụ trước ngay sau khi thu hoạch.

Thu dọn tàn dư, làm sạch cỏ bờ...

Kết hợp làm cỏ, nhổ vùi các các lúa bị bệnh.

Theo dõi bẫy đèn để xác định đỉnh cao của các đợt RLT và các loại rầy hại lúa khác. Thời điểm xuống giống (cả lúa gieo thẳng và làm mạ) tốt nhất là sau đỉnh cao của rầy môi giới vào đèn 4 – 6 ngày.

Biện pháp thuốc BVTV

Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng thuốc trừ rầy nội hấp. 

Đối với cây mạ, trước khi cấy tiến hành phun thuốc nội hấp 2- 3 ngày trước khi cấy. Ở các tỉnh phía Bắc người ta gọi là “phun tiễn chân”, giải pháp này nhằm chủ động hạn chế RLT truyền bệnh cho lúa mới cấy.

Đối với lúa cấy và lúa gieo thẳng: Thường xuyên thăm đồng, kết hợp với theo dõi bẫy đèn để xác định mật độ RLT truyền bệnh trên đồng ruộng. Khi cần thiết phải trừ rầy truyền bệnh thì ưu tiên sử dụng các loại thuốc nội hấp có hiệu quả cao trừ cả rầy non và rầy trưởng thành. Trong trường hợp cần thiết có thể hỗn hợp với các loại thuốc tiếp xúc để diệt rầy có hiệu quả nhanh hơn nhằm chống lây lan bệnh trên đồng ruộng. 

Áp dụng hài hòa biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) để hạn chế mật độ RLT ở cuối vụ trong vùng lúa bị bệnh là chủ động hạn chế RLT truyền bệnh cho lúa tiếp theo cũng như những ruộng ngô liền kề vùng lúa bị bệnh.    

Sử dụng thuốc BVTV theo 4 đúng.

(Liên hệ với chúng tôi)