Giới thiệu chung
Tên tiếng Anh: Rice Ragged Stunt Virus – RRSV
Bệnh lúa lùn xoắn lá (LLXL) xuất hiện vào năm 1977 ở Philippines, Indonesia, Malaysia, Thái lan và Việt Nam cùng với sự bùng nổ của dịch rầy nâu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lúa ở các nước này. Ở nước ta, trong những năm 1977 – 1978 bệnh gây hại trên 40.000 ha ở đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2006 cùng với dịch bệnh virus vàng lùn, bệnh LLXL lá đã gây thiệt hại đáng kể ở các tỉnh phía Nam. Hiện nay bệnh tồn tại phổ biến ở các tỉnh từ Bình Định trở vào phía Nam.
1.1 Triệu chứng
Triệu chứng điển hình là cây lúa bị bệnh thấp lùn, lá bị xoắn, sinh trưởng chậm và khó trỗ bông, các lá lúa vẫn giữ được màu xanh đến xanh đậm. Ở mặt dưới phiến lá hoặc mép ngoài bẹ lá thường xuất hiên những u sần, gân lá bị sưng lên. Trong giai đoạn lúa non, lá có thể bị rách ở mép lá thành những đoạn ngắn hình chữ V hoặc hình răng cưa. Chỗ bị rách có màu vàng, vàng nâu. Giai đoạn trưởng thành có ít lá rách hơn và thường thấy bị xoắn lại thành nhiều vòng theo hình lò xo hoặc trôn ốc. Các lá bánh tẻ và lá già thường chỉ bị xoắn ở phần đỉnh lá, những lá non mới sinh ra thường hay bị xoắn cả phiến lá thành một ống hình lò xo. Trong một bụi lúa có thể có nhiều lá hoặc chỉ một vài lá bị xoắn. Số lá bị xoắn có xu thế giảm dần vào cuối thời kỳ sinh trưởng của cây lúa. Lá đòng thường phát triển không đầy đủ và cũng bị xoắn ở đầu hoặc cả phiến lá. Cây bị bệnh ở giai đoạn mới gieo sạ thường sẽ chết trước khi trỗ. Bị bệnh muộn hơn thì vẫn cho bông nhưng bông nhỏ và ngắn, hạt lép nhiều. Lúa chét mọc lên từ cây lúa bị bệnh cũng có triệu chứng xoắn lá, mầu lá xanh đậm, lúa chét là một trong những nguồn bệnh cho vụ lúa tiếp theo.
1.2 Nguyên nhân
Virus gây bệnh lúa lùn xoắn lá là một thành viên thuộc nhóm oryzavirus, họ Reoviridae. Tiểu thể Virus có dạng hình đa diện cầu, đường kính 50nm. Bộ gen gồm 10 phân tử ARN mạch kép. Virus gây bệnh lúa lùn xoắn lá cũng do rầy nâu là môi giới truyền bệnh.
1.3 Phát sinh gây hại
Virus không truyền qua hạt giống, đất, nước và qua vết thương cơ giới. Virus gây bệnh lây lan trên đồng ruộng thông qua môi giới là rầy nâu. Quan hệ truyền bệnh giữa Virus và rầy môi giới theo kiểu bền vững. Rầy nhiễm Virus truyền được bệnh đến khi chết. Rầy non thường có khả năng truyền bệnh cao hơn rầy trưởng thành. Tuy nhiên rầy trưởng thành có khả năng bay xa hoặc theo gió nên khả năng lây bệnh trên diện rộng cao hơn. Rầy nâu di trú từ vùng lúa bị bệnh là một trong những “nguồn bệnh di động” trên đồng ruộng. Thời gian ủ bệnh trong véc tơ truyền bệnh từ 6 đến 18 ngày. Thời gian ủ bệnh trong cây lúa từ trên 6 - 14 ngày, thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của cây lúa. Cây lúa ở gian 40 ngày tuổi có thời gian ủ bệnh tới 32 ngày. Cây lúa càng non càng mẫn cảm với bệnh, cây lúa càng già ít mẫn cảm với bệnh nhưng là nguồn bệnh cho vụ lúa tiếp theo khi lúa chét mọc lên. Trong vùng dịch, trên đồng ruộng có nhiều trà lúa khác nhau tồn tại là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát sinh và gây hại. Cây lúa dại, cỏ lồng vực, cỏ đuôi phượng là ký chủ trung gian của bệnh.
Biện pháp canh tác
Cày lật gốc rạ trên các ruộng bị bệnh vụ trước ngay sau khi thu hoạch.
Thu dọn tàn dư, làm sạch cỏ bờ...
Gieo cấy bằng các giống kháng rầy nâu – môi giới truyền bệnh.
Kết hợp làm cỏ, nhổ vùi các các lúa bị bệnh.
Tiến hành gieo sạ “né rầy” đồng loạt trên diện rộng bằng cách theo dõi bẫy đèn để xác định đỉnh cao của các đợt rầy nâu. Thời điểm xuống giống tốt nhất là sau đỉnh cao của rầy môi giới vào đèn 4 – 6 ngày.
Biện pháp thuốc BVTV
Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng thuốc trừ rầy nội hấp.
Đối với cây mạ, trước khi cấy tiến hành phun thuốc nội hấp 2- 3 ngày trước khi cấy đối với diện tích làm mạ để nhân giống ở các tỉnh phía Nam trong vùng có dịch. Giải pháp này nhằm chủ động hạn chế rầy nâu truyền bệnh cho lúa mới cấy. Bảo vệ cây lúa non ở giai đoạn trước 40 ngày sau gieo sạ: Thường xuyên thăm đồng, kết hợp với theo dõi bẫy đèn để xác định mật độ rầy nâu truyền bệnh trên đồng ruộng. Khi cần thiết phải trừ rầy truyền bệnh thì ưu tiên sử dụng các loại thuốc nội hấp có hiệu quả cao trừ cả rầy non và rầy trưởng thành. Trong trường hợp cần thiết có thể hỗn hợp với các loại thuốc tiếp xúc để diệt rầy có hiệu quả nhanh hơn nhằm chống lây lan bệnh trên đồng ruộng.
Giai đoạn 40 ngày sau gieo sạ: Áp dụng hài hòa biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) để hạn chế mật độ rầy nâu ở vùng lúa bị bệnh bằng các loại thuốc: sinh học (nấm Beauveria và Metarhizium… ), thuốc hóa học trừ rầy nhóm thuốc chống lột xác, thuốc nội hấp, tiếp xúc...
(Liên hệ với chúng tôi)